Lịch sử Trung Quốc đã có gần 500 vị Hoàng đế kể từ Tần Thủy Hoàng cho đến khi Phổ Nghi thoái vị và bãi bỏ chế độ quân chủ. Trong đó có anh hùng xưng bá thiên hạ, có quân vương khiến người khóc than, cũng có người khi còn sống chưa từng làm Hoàng đế, sau khi chết được truy phong (như Tào Tháo)...
Và trong số những Hoàng đế này, bạn có biết ai là người lên ngôi trẻ nhất không?
Nhiều người có thể nghĩ ngay đến Phổ Nghi, vị Hoàng đế cuối cùng lên ngôi khi mới 3 tuổi. Nhưng thực tế có rất nhiều người lên ngôi trẻ hơn ông trong lịch sử Trung Quốc. Trong số đó, Lưu Long của nhà Đông Hán được xem là Hoàng đế trẻ nhất khi lên ngôi, và cũng băng hà ở độ tuổi trẻ nhất.

Lưu Long lên ngôi khi chưa đầy 100 ngày tuổi và qua đời khi chưa đầy 1 tuổi. Ảnh: IT.
“Hoàng đế 100 ngày tuổi” - vị Hoàng đế trẻ nhất trong lịch sử Trung Quốc
Theo sách "Đế vương Trung Hoa" (Nguyễn Tôn Nhan, NXB Tổng hợp Đồng Nai), kết thúc thời Tây Hán do Hán Cao Tổ Lưu Bang sáng lập, lịch sử Trung Quốc trải qua nhiều biến động rồi bước sang thời Đông Hán kéo dài tổng cộng 196 năm (năm 25 - năm 220).
Hán Quang Vũ Đế (Hán Thế Tổ) là vị Hoàng đế thứ 16 của nhà Hán, cũng là người sáng lập ra triều đại Đông Hán. Suốt gần 200 năm tồn tại, nhà Đông Hán chỉ phồn thịnh giai đoạn đầu rồi dần suy yếu. Thời kỳ Lưu Long ngồi ngai vàng là thời kỳ bắt đầu suy tàn của nhà Đông Hán.
Lưu Long sinh năm 105, là con trai thứ hai của Hán Hòa Đế Lưu Triệt. Sử sách không ghi rõ mẹ ông là ai.
Tháng 12 năm 105, Hán Hòa Đế bị bệnh qua đời. Sinh thời, Hán Hòa Đế đề phòng các con trai bị hoạn quan, ngoại thích (họ hàng nhà vợ) mưu hại nên đem các con đi gửi vào dân gian. Sau khi ông mất, Hoàng hậu Đặng Tuy sai đón các hoàng tử về cung.
Lúc đó, Thái tử Lưu Thắng bị bệnh nặng, không thể nối ngôi. Vì thế, con trai thứ là Lưu Long được truyền lại ngai vàng khi mới 100 ngày tuổi, thụy hiệu Hán Thương Đế. Lưu Thắng được phong tước vương, trở thành Bình Nguyên vương.
Với độ tuổi còn quá nhỏ, Lưu Long chỉ là một vị vua trên danh nghĩa. Mọi quyền lực trong triều đình đều nằm trong tay Thái hậu Đặng Tuy, vợ của Hán Hòa Đế. Bà đứng ra nhiếp chính và trao toàn bộ quyền điều hành quốc gia cho anh trai là Đặng Chất, biến họ Đặng trở thành thế lực ngoại thích nắm quyền thực sự trong triều.
Tuy nhiên, sức khỏe yếu ớt không cho phép vị ấu quân này sống lâu. Đến tháng 8 năm 106, Lưu Long qua đời vì cảm lạnh khi chưa tròn một năm tuổi, sau chỉ 8 tháng trị vì.
Trong thời gian trị vì ngắn ngủi, ông chỉ có một niên hiệu duy nhất là Duyên Bình. Sau khi mất, ông được truy tôn thụy hiệu là Hiếu Thương hoàng đế, không có miếu hiệu, thường được hậu thế gọi đơn giản là Thương Đế.
Không chỉ là vị Hoàng đế trẻ tuổi nhất, Lưu Long cũng là Hoàng đế đoản mệnh nhất trong lịch sử Trung Hoa. Sau khi qua đời, Hán Thương Đế được mai táng ở Khang Lăng (nay thuộc phía Đông Nam thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam).
Sau cái chết của Hán Thương Đế, Đặng thái hậu cùng Đặng Chất đưa Lưu Hỗ – cháu gọi Hòa Đế là bác, khi ấy mới 13 tuổi – lên ngôi, tức là Hán An Đế, vị hoàng đế thứ 6 của nhà Đông Hán. Một lần nữa, do vua còn nhỏ tuổi, Thái hậu Đặng Tuy tiếp tục nắm quyền nhiếp chính cho đến khi qua đời vào năm 121.
Khi chính sự về tay Hán An Đế, ông tỏ ra lơ là việc triều chính, mải mê hưởng lạc. Điều này tạo điều kiện cho các hoạn quan lộng quyền. Trong bối cảnh đó, Diêm hoàng hậu – vợ của An Đế – từng bước đưa dòng tộc họ Diêm can dự vào triều đình, mở đường cho ngoại thích họ Diêm nắm quyền, dẫn đến những biến động chính trị nghiêm trọng trong những năm sau.
Những vị Hoàng đế nhà Đông Hán mờ nhạt
Đối với những người yêu thích lịch sử nói chung, nhà Đông Hán càng quen thuộc với giai đoạn đầu, bởi vì Hoàng đế khai quốc Lưu Tú quá hùng mạnh gắn với câu chuyện huyền thoại.
Và câu chuyện về sự kết thúc của nhà Đông Hán thậm chí còn nổi tiếng hơn vì liên quan đến Tam Quốc Chí.
Tuy nhiên, nhiều người hâm mộ lịch sử không quen thuộc với những câu chuyện về thời kỳ giữa của triều đại Đông Hán. Tại sao? Bởi vì thực sự không có gì để nói. Những người nổi tiếng hơn có lẽ chỉ có Thái Luân phát minh ra giấy và Trương Hành chế tạo ra dụng cụ đo địa chấn.
Về phần câu chuyện của Hoàng đế thì hoàn toàn mờ nhạt, "thiên tử không còn là rồng".
Lý do cho điều này thực sự rất phức tạp. Nguyên nhân quan trọng nhất là vào giữa và cuối thời Đông Hán, hai thế lực ngoại tộc và hoạn quan hùng mạnh đến mức Hoàng đế không thể đối phó.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là do hầu hết các Hoàng đế vào giữa và cuối Đông Hán đều chết trẻ. Từ Hoàng đế 100 ngày tuổi Lưu Long đến Hán Thiếu Đế Lưu Biện, tổng cộng có 8 vị Hoàng đế.
Hoàng đế mất sớm, cầm quyền không bao lâu, đương nhiên không có khả năng thu dọn tàn cuộc. Rất nhiều quyền thần ở địa vị cao, đều có thể dễ dàng trở thành trưởng lão của các thế hệ liên tiếp, thậm chí là có người làm quan của 5 đời Hoàng đế. Đây là điều hoàn toàn không thể tưởng tượng được ở các triều đại khác.
Giai đoạn giữa và cuối thời Đông Hán là lịch sử tranh giành quyền lực giữa một nhóm hoạn quan và hoàng thất. Hai bên chém giết lẫn nhau, Hoàng đế chỉ có thể ngồi một bên coi như xem kịch.
Đơn cử, vào cuối thời Đông Hán, Hán Hoàn Đế Lưu Chí lên ngôi chỉ vài tháng, các hoạn quan đã phát động một cuộc đảo chính, giết chết tất cả gia tộc Đậu thị có thế lực hùng mạnh trong triều và bắt đầu nắm quyền. Sau đó, buộc Hoàng đế phải gọi các quyền thần là cha mẹ. Sau khi nắm quyền, các hoạn quan bắt đầu bán đứng chính người của họ và gia tộc mình, khiến chính quyền trở nên hỗn loạn.
Cuối cùng, sau khi chờ đợi Hán Hoàn Đế Lưu Chí qua đời, Hà Hoàng hậu lên nắm quyền. Anh cả của Hà Hoàng hậu là Hà Tiến, vị tướng nổi tiếng trong "Tam Quốc diễn nghĩa".
Vốn dĩ Hà Tiến cũng muốn diệt trừ hoạn quan, sau đó một mình nắm quyền. Kết quả là sự việc bị đưa ra ánh sáng và thay vào đó bị giết bởi quyền thần. Do đó, Hà Tiến đã gọi Đổng Trác của quân Tây Lương vào Bắc Kinh trước khi ông bị giết. Lần này, tình thế hoàn toàn sụp đổ. Cùng với sự bùng nổ của Khởi nghĩa khăn vàng, sự chống cự cuối cùng của nhà Đông Hán đã bị đánh bại, và sau đó bước vào thời đại Tam Quốc hỗn loạn hơn.